TX Sông Cầu có 26 lăng thờ cá voi, trong đó lăng Hòa Lợi ở xã Xuân Cảnh là di tích thờ cá Ông điển hình ở Phú Yên. Hiện nơi đây còn bảo lưu được nhiều ngọc cốt có giá trị lịch sử, văn hóa.
Cúng thần trong lễ hội cầu ngư ở lăng Hòa Lợi. Ảnh: HOÀI SƠN
Bảo lưu nhiều ngọc cốt
Lăng Hòa Lợi ở thôn Hòa Lợi, xã Xuân Cảnh có mặt tiền quay về hướng Nam, nhìn về phía mặt đầm Cù Mông. Nhìn tổng thể từ ngoài vào, những bộ phận kiến trúc chính của lăng gồm: cổng, thành bao, bình phong, trụ biểu, nhà võ ca, tiền đường, chính điện, mộ cá Ông. Phần lớn kiến trúc di tích được xây bằng vật liệu đá vôi và hợp chất vôi, cát có pha một số phụ liệu tạo độ bền vững rất cao.
Nói về lịch sử xây dựng lăng Hòa Lợi, ông Nguyễn Hữu An, Giám đốc Bảo tàng tỉnh cho biết: Hiện chưa có cơ sở về tài liệu văn tự để xác định cụ thể thời điểm xây dựng lăng. Nhưng chắc chắn di tích lăng Hòa Lợi đã có từ trước năm 1852, thời điểm vua Tự Đức ban sắc phong thần cho đối tượng thờ cúng ở lăng. Vì rằng, khi đã có hoạt động thờ cúng và đã có cơ sở thờ tự thì mới đủ điều kiện để vua ban sắc phong. Theo lời các cụ: Phạm Bình Hòa, Dương Hữu Thành ở thôn Hòa Lợi, lăng được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII hoặc đầu thế kỷ XIX. Việc xây dựng lăng có liên quan đến một sự tích: Từ thuở mới lập làng, có một Ông (cá voi) lụy vào bờ đầm Cù Mông, phía trước làng Hòa Lợi ngày nay. Do xác Ông rất lớn, lúc bấy giờ dân làng còn ít, chưa đủ sức chôn cất nên dùng cây cối chắn sóng và bảo vệ xung quanh để xác Ông tự phân hủy. Sau đó, dân làng đưa phần di cốt Ông về chôn cất. Tương truyền, mỗi đốt xương cá Ông có đến 8 người khiêng. Tại vị trí Ông lụy nay còn địa danh là Cồn Ông. Còn tại nơi chôn phần ngọc cốt Ông, sau đó dân làng đã xây dựng lăng thờ Ông, đây chính là lăng Hòa Lợi ngày nay. Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, thời điểm phát triển hưng thịnh, tại cửa đầm Cù Mông, thuyền buôn hoạt động rất nhộn nhịp, từ sự đóng góp vật chất của các thương lái và công sức của dân làng, lăng Ông Hòa Lợi đã được xây dựng rất bề thế, và đây là lăng lớn nhất vùng kể từ thời điểm đó cho đến hiện nay.
Hiện tại, lăng Hòa Lợi đang lưu giữ 28 bộ ngọc cốt cá Ông, cùng 1 bộ ngọc cốt của Ông Tổ (Ông lụy đầu tiên) chôn sau chính điện và 3 bộ khác đang mai táng chưa lấy cốt.
Sắc vua Tự Đức năm thứ 5 (1852) phong cho thần Nam Hải. Ảnh: HOÀI SƠN |
Phát huy giá trị di tích để phát triển du lịch
Di tích lăng Hòa Lợi nằm giữa khu vực đông dân cư. Ngay phía trước lăng là bến nước neo đậu tàu thuyền, trên bãi là nơi tập trung các loại ngư cụ của nghề biển. Từ phía đầm Cù Mông nhìn vào có thể quan sát được toàn cảnh khu vực di tích lăng Hòa Lợi nằm ẩn hiện dưới những chòm dừa xanh và những bóng cổ thụ che phủ. Những yếu tố về cảnh quan tự nhiên kết hợp với di tích, lễ hội và những hoạt động ngư nghiệp của người dân địa phương đã hội đủ lợi thế để phát triển du lịch mang đậm dấu ấn văn hóa biển. Thể hiện rõ nhất từ kiến trúc nhà ở, các thiết chế văn hóa, đến nghề truyền thống như: đóng, sửa chữa ghe thuyền, đan vá lưới, đánh bắt và chế biến thủy sản, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, trong đó đặc sắc nhất là tín ngưỡng thờ cúng cá Ông.
Tâm điểm thu hút du khách là lễ hội cầu ngư – một hoạt động văn hóa cộng đồng quan trọng nhất diễn ra tại di tích lăng Hòa Lợi hàng năm. Lễ hội được tổ chức vào đầu tháng 3 âm lịch. Trong đó, 2 ngày chính lễ diễn ra vào mùng 2 và mùng 3, tiếp theo là phần hội thể hiện qua một số trò diễn dân gian và hát tuồng thứ lễ. Phần hội trong lễ cầu ngư ở lăng Hòa Lợi có thể kéo dài từ 1-3 ngày tùy thuộc vào điều kiện của ngư dân và vạn lạch mỗi năm. Lễ hội cầu ngư là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng rất đặc sắc của các làng biển Phú Yên nói chung và ở Hòa Lợi nói riêng. Với cội nguồn rất xa xưa, được phủ thêm màu sắc Phật giáo, Nho giáo phù hợp với cấu trúc đa nguyên trong tín ngưỡng người Việt; quá trình tồn tại, phát triển lễ hội cầu ngư đã tiếp thu và tôn vinh những đạo lý cổ truyền thấm đượm tính nhân văn. Lễ hội cầu ngư ở Hòa Lợi phản ánh nét đẹp truyền thống, thuần phong mỹ tục của người dân địa phương, qua đó tình nghĩa xóm làng thắt chặt, tinh thần gắn kết cộng đồng được củng cố trao truyền. Đặc biệt, các loại hình diễn xướng dân gian, nghệ thuật sân khấu truyền thống có điều kiện để duy trì, bảo tồn và phát huy trong đời sống đương đại.
Hòa Lợi là một làng biển trải dọc theo bờ đầm Cù Mông, địa bàn dân cư nằm về phía mũi của bán đảo Vĩnh Cửu, với thế tựa lưng vào núi, mặt hướng ra đầm, nhà cửa được xây dựng trải rộng ra sát mép nước. Phía sau làng có những động cát và đồi núi bao bọc, che chắn với những tên núi như: Hòn Rồng, cồn Muối, núi Đá Trắng, núi Gềnh Bà… Phía trước làng có đảo Hòn Nần (còn gọi là Bình Đảo) nằm trong cửa đầm Cù Mông. Trong thời kỳ giao tranh giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn, trên đất liền quân Tây Sơn xây dựng các pháo đài và đặt đại bác canh giữ tại cửa đầm, nay còn lại dấu tích bờ đá; ngoài đảo Hòn Nần, quân Nguyễn Ánh chốt giữ, tạo thế giằng co quyết liệt. Sau khi lên ngôi, năm 1806 vua Gia Long cho lập miếu Công Thần (miếu Biểu Trung) trên Hòn Nần để thờ các tướng sĩ trận vong, hàng năm có tổ chức cúng tế theo nghi thức tỉnh tế do các quan tỉnh chủ trì, ngày nay còn dấu tích ngôi miếu trên đảo. Do có vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi, địa bàn Hòa Lợi đã sớm thu hút sự tập trung dân cư, hình thành làng mạc ngay từ thời kỳ đầu khi người Việt vào khai phá vùng đất Phú Yên ở cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Tên gọi Hòa Lợi được sử dụng từ sau năm 1975 đến nay. Về hoạt động kinh tế, từ xưa đến nay, người dân Hòa Lợi chỉ tập trung làm nghề biển…
Mặc dù lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên xã hội nhân văn ở làng biển Hòa Lợi là rất lớn, đặc biệt Hòa Lợi là vùng đất có bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa, với nhiều địa danh, cảnh quan thiên nhiên nổi tiếng, nhưng việc quảng bá, khai thác giá trị di tích còn nhiều hạn chế. Để lăng Hòa Lợi trở thành một điểm đến tham quan hấp dẫn người dân tỉnh nhà, cũng như du khách trong nước và quốc tế trên hành trình du lịch xuyên Việt qua Phú Yên, rất cần sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phương và ngành chức năng từ đầu tư mở rộng hệ thống giao thông đến đánh giá toàn diện tiềm năng lợi thế của di tích trong mối tương quan với không gian chung bao gồm các di tích lịch sử, văn hóa, cảnh quan thiên nhiên khu vực đầm Cù Mông, từ đó có những giải pháp phù hợp để khai thác du lịch, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.
NGUYỄN HOÀI SƠN
Nguồn: baophuyen.vn
Thảo luận về bài viết này